BTKC: Chương 29

Chương 29: Sơn thủy cung liên hoa

Ngày hôm sau, Đường Khải tới đón Tạ Linh Nhai và Thi Trường Huyền, lần này có người hỗ trợ cho nên có thể mang mọi thứ thiết yếu để làm pháp sự.

Đường Khải là một người làm việc nhanh nhẹn và hăng hái, ông coi trọng đến mức đích thân đi theo, không những thế ông còn dùng laptop làm việc từ xa ở trên xe. Giữa lúc làm việc còn xen kẽ quan tâm đến quy mô của Bão Dương Quán.

Tạ Linh Nhai nghi ngờ ông ấy cũng có hứng thú với Bão Dương Quán, song tuy là dạo này Bão Dương Quán có nổi tiếng nhưng chỉ nhỏ thôi, đất xung quanh lại đắt, cũng không thể tích hợp thành giống như khu nghỉ dưỡng của ông ấy, hết sức lẻ loi và không có giá trị.

Hôm qua sau khi Đường Khải rời đi, Thi Trường Huyền nói với Tạ Linh Nhai, theo Trần Tam Sinh tiết lộ, trước đây Đường Khải còn muốn mua Thái Hòa Quán, nhưng Trần Tam Sinh kiên quyết không đồng ý, người ta tự mình bán vé, hoạch định này nọ đều làm rất tốt. Có thể coi như là trong sạch giữa phần lớn những chùa chiền đạo quán bị thu mua và có ông chủ tư nhân ngồi đằng sau.

Cũng do Thái Hòa Quán hương khói khá vượng, Đường Khải mới có ý này. Hiện giờ ông phát triển khu thắng cảnh thì chọn chùa, đồng thời mời cao tăng đến. Ngoại trừ lý do chùa dễ làm hơn một chút, thì cũng bởi xây mới thêm đạo quán tại vùng này không có thị trường lớn.

Từ Bão Dương Quán đến mảnh đất mà Đường Khải mua khoảng chừng hơn một tiếng, sau khi đến nơi thì chỉ thấy chỗ này toàn bùn vàng, bên cạnh có một số nhà hai tầng di động.

Mọi người nghỉ ngơi trước một lát, cất đồ xong xuôi, sau đó Đường Khải tự mình rót trà, hơi tâm đắc nói, “Thi đạo trưởng, thế núi của tôi thế nào?”

Thi Trường Huyền gật đầu nói, “Trập trùng uốn lượn.”

Trong phong thủy dùng rồng để hình dung sự thay đổi của dãy núi, bởi vì núi và rồng giống nhau là thường hay biến hóa, xem thế núi chính là xem long mạch. Long mạch bắt nguồn từ sơn tổ, các nhà phong thủy gọi núi Côn Lôn là sơn tổ, sơn tổ kéo dài ra ba nhánh long mạch lớn chính, mỗi nhánh lại có nhiều nhánh khác. Ngoài ba nhánh long mạch ra, thì còn có ba vùng sông lớn, cũng chính là Trường Giang, Hoàng Hà và sông Áp Lục, mỗi sông kẹp lấy ba nhánh long mạch lớn.

Trước khi xem thế núi, nhìn như chỉ quan sát trên đất, thật ra trong lòng có tính toán đối với long mạch trên thiên hạ, biết rõ “ngọn nguồn” mới có thể phán đoán tốt hơn.

Toàn bộ tỉnh Thước Sơn đa số là núi, hầu hết nằm trên nhánh của nhánh long mạch giữa. Vị trí của dãy núi mà Đường Khải mua mảnh đất này, là một con “rồng tiến tới”, lên xuống trập trùng, cực kỳ hùng mạnh, thuộc bố cục rất giàu sang.

Thi Trường Huyền nhìn đằng sau, lại nói, “Miệng suối nằm ở đâu?”

Hôm qua Đường Khải đã nói ông còn sẽ xây sơn trang suối nước nóng ở đây, cho nên Thi Trường Huyền mới có câu hỏi này. Có lẽ không dễ xem được, vì thế Đường Khải lấy ra một tấm bản đồ chỉ cho Thi Trường Huyền coi, “Bây giờ chúng ta đang ở vị trí này, miệng suối nằm ở bên kia.”

Ngạn ngữ có câu, hồ có nước ngàn năm không cạn, nhà có của ngàn năm không hết. Trong thuật phong thủy, có nước là tốt, suối nước nóng này tập trung ở phía trước, chiêu tài tụ khí.

Thi Trường Huyền gật đầu, “Xây sơn trang của ông ở đây, thủy tụ thiên tâm (1). Về phần chùa, phải có sinh khí, một chút đi xem xem, coi ở đâu tụ khí.”

(1) Đại khái là một bố cục trong phong thủy, có nước tụ tại phía trước nơi ở sẽ chiêu tài tụ khí, đem tới nhiều tiền nhiều của. Thông thường trong thành phố người ta hay xây bể bơi hoặc bể phun nước phía trước là vì thế.

“Được, ha ha.” Đường Khải rất đỗi vui vẻ.

Sau khi nghỉ ngơi một hồi, họ lại thay giày đi mưa, lên địa thế cao hơn một chút xem khí. Mấy cấp dưới của Đường Khải đi theo bên cạnh, trong lòng đều ngạc nhiên vô cùng. Theo Đường Khải lâu như vậy, đương nhiên biết sở thích của Đường Khải, có điều trước đây Đường Khải mời đến đều là đạo trưởng, cao tăng có tiếng, tuổi tác ai nấy ít nhất bốn mươi năm mươi, hai người này lại mặc đồ bình thường, không giống người xuất gia cũng thôi đi, còn trẻ tuổi giống như sinh viên vậy nữa.

Đương nhiên, sau này họ sẽ biết một trong số đó đích thực vẫn còn là sinh viên.

Tạ Linh Nhai vốn là không cần phải đi cùng, nhưng cậu cũng ngại ngồi đợi một mình, theo bên cạnh Thi Trường Huyền còn có thể học vài thứ, vì thế lên núi chung luôn.

Dù rằng nơi này đã khai phá đến mức chẳng thấy cỏ cây, nhưng thời buổi này có hình ảnh có video, đủ để chứng minh vài điều. Thông thường cỏ cây bị khô héo dĩ nhiên không phải nơi tốt gì, ngay từ đầu Đường Khải đã diệt rồi.

Chùa sẽ xây dựa lưng vào núi, thế nên phải xem dáng núi trước, Thi Trường Huyền trên đường tới và ban nãy quan sát từ trong bản đồ đã xem ra thế núi rồi. Tiếp đó phải xem địa thế và khí, xác định kết huyệt (2) của đất.

(2) Ý chỉ khu vực khí sinh vượng của long mạch tụ lại với nhau tạo nên, là cơ sở để người xưa làm bố cục phong thủy và bát trạch phong thủy.

Thi Trường Huyền cầm trong tay một cái la bàn, trông vô cùng cổ xưa, dù sao nhà anh nhiều thế hệ làm đạo sĩ, Tạ Linh Nhai đoán cái la bàn này cũng là đời trước truyền lại.

Trong những thứ mà Bão Dương Quán truyền lại không có la bàn. Mặc dù trong bút ký Bão Dương cũng có kiến thức phong thủy liên quan, nhưng có lẽ không phải là môn tu chính cho nên không chuyên đến vậy.

Dùng cực của la bàn để xác định phương hướng, Thi Trường Huyền chỉ xem làm tham khảo, sau khi coi vài lần thì chăm chú nhìn kiểm tra sinh khí trong núi.

Tạ Linh Nhai cũng nhìn về nơi xa, nhưng không nhìn ra cái gì khác biệt, vả lại bây giờ chẳng có gió, không biết làm thế nào để xem sinh khí nữa.

Thế mà sau một hồi Thi Trường Huyền nhìn thì liền chỉ vào một chỗ nói, “Ngài Đường có thấy vầng sáng tròn chỗ kia không? Hẳn là huyệt thật.”

Không chỉ Đường Khải, mà tất cả mọi người đều ngóng cổ nhìn vào chỗ anh chỉ.

Đường Khải gãi đầu, “Là chỗ đó à? Hình như là có chút vầng sáng mơ hồ… Đấy không phải là hơi nước ư?”

Vầng sáng lờ mờ nọ như có như không, hình dạng trái lại rõ rệt, nhưng nếu không phải Thi Trường Huyền chỉ, bọn họ quan sát kỹ, đoán chừng nhìn không ra.

“Đấy là vầng Thái Cực (3), biểu hiện khi sinh khí tụ lại.” Thi Trường Huyền nói, “Cũng bởi do như có như không, gần nhìn không thấy, xa nhìn mới thấy, cho nên gọi là vầng Thái Cực.”

(3) Vầng Thái Cực là dấu hiệu của kết huyệt, chỉ hơi nước bao quanh tâm huyệt tạo thành vòng tròn mờ ảo, tức có khí tụ bên trong, cũng chính là huyệt thật.

“Có nghĩa là ngôi chùa sẽ xây ở đó?” Đường Khải đổ mồ hôi nói, “Chỗ đó lại ở vị trí cao nhất.”

Thi Trường Huyền nói: “Thế nên còn phải đào xuống một chút cho bằng phẳng mới có thể kết huyệt, và vẫn cần rước thủy.”

Đường Khải gật đầu liên tục, ông đã sớm nghe đến danh tiếng của gia đình Thi Trường Huyền, lại nghe Trần Tam Sinh từng nói tính cách của Thi Trường Huyền. Dù rằng lúc Thi Trường Huyền chỉ điểm phong thủy thường nói rất đơn giản, nhưng kết quả tuyệt đối đảm bảo.

Ông làm việc nhanh nhảu, làm gì cũng tiến hành cùng lúc, thế nên vừa đấu giá được mảnh đất này, bản thiết kế cũng làm gần xong luôn, chỉ cần sửa đổi lại dựa theo Thi Trường Huyền nói là được.

Thi Trường Huyền nói ra hết mọi góc độ, làm sao rước thủy. Lại nói các nơi phải chú ý dựa vào ấn tượng khi xem bản đồ, giống như tháp chuông của chùa nên xây ở hướng và vị trí gì, chính điện không hợp xây tại nơi nào, như thế những hoạt động gõ chuông, thắp nhang, tụng kinh vân vân sẽ không bị ảnh hưởng.

Sau khi xem khí thì là coi bố cục, Thanh Long, Bạch Hổ, Huyền Vũ, Chu Tước vân vân.

Mặc dù Đường Khải nghe sơ sơ là đủ rồi, nhưng Tạ Linh Nhai tò mò ấy, hỏi đến tận cùng, “Rước thủy là bởi vì phải có nước à? Để tụ tài ư?”

Thi Trường Huyền lắc đầu, “Chỉ là một trong số đó, bên dưới thủy tụ thiên tâm đã như tụ tài rồi. Trên dưới nghênh tiếp, là vì nơi đây sẽ xây dựng chùa.”

Do là chọn vị trí cho chùa, nên phải suy xét tới đặc tính của họ. Hoa khai kiến Phật ngộ vô sinh (4), Phật giáo dùng hoa sen ví von việc tu hành cùng Phật tính, Phật và Bồ Tát đều là ngồi hoặc đứng trên đài sen, hình vẽ hoa sen cũng rất phổ biến ở chùa. Hơn nữa khi Thích Ca Mâu Ni sinh ra đời là đứng bên trên hoa sen, lúc tu hành cũng là mỗi bước một đóa sen.

(4) Hoa nở gặp Phật nhận ra vô sinh. Từ “vô sinh” này rất đa nghĩa, có nơi bảo là “khi gặp Phật chúng ta nhận ra mình vốn không tồn tại”, hoặc “bất sinh bất diệt, thoát ra ngoài vòng sống chết luân hồi”. Các bạn tự ngẫm nhé!

Hơn nữa cao tăng mà Đường Khải mời đến chính là pháp sư của Tịnh Thổ Tông, tên gọi khác của Tịnh Thổ Tông chính là “Liên tông”.

Hoa sen càng cần phải có nước, thế nên toàn bộ các bố trí của Thi Trường Huyền ngoài tụ sinh khí ra thì còn suy xét đến làm sao mượn dùng nước phía dưới, nhằm nuôi dưỡng “hoa sen” bên trên.

Kiểu bố cục này trước đây không hề có, không tên không hiệu. Dẫu sao bản thân Phật tử cho rằng ta ở đâu nơi đó chính là phong thủy, hơn nữa làm phong thủy là vi phạm quy tắc, và vì là thuộc tôn giáo khác cho nên không có nghiên cứu sâu đối với phong thủy. Mà đại sư phong thủy trong Đạo môn đâu rảnh rỗi đi suy nghĩ xem xây chùa thế nào.

Cái bố cục phong thủy này hoàn toàn là do Thi Trường Huyền dựa theo nhu cầu thiết kế ra.

Tạ Linh Nhai nghe anh nói chi tiết như vậy, vốn cậu nghi trước đó anh đã từng xem phong thủy cho chùa, nhưng phần nói sau đều là dựa vào địa thế hiện có, rõ ràng là đặc chế độc nhất vô nhị.

Tạ Linh Nhai nghe mà phục luôn, giỏi giang, thông thạo, đừng thấy Thi Trường Huyền kiệm lời, cái thái độ phục vụ này thật sự rất tốt, suy tính chọn vị trí cho Thích tông (Phật giáo) chu đáo đến vậy. Từ việc lớn là tự tạo bố cục “sơn thủy cung liên hoa” (nước trên núi nuôi dưỡng hoa sen), nhỏ là phương hướng và vị trí của tháp chuông, nơi giảng kinh.

Mặc dù chính Đường Khải là người nảy ra ý tưởng vô cùng hoang đường là để đạo sĩ chọn vị trí cho chùa, nhưng bây giờ nghe xong thì không khỏi nói, “Vất vả rồi, Thi đạo trưởng hiểu rất rõ về Thích giáo nhỉ.”

Này không chỉ là thái độ phục vụ tốt, làm việc chuyên nghiệp, mà còn có hiểu biết về Thích giáo nữa.

Thi Trường Huyền thản nhiên nói: “Ngành tôi học là Tôn giáo học.”

Mặc dù hướng chính là Đạo giáo, nhưng anh cũng có xem lướt qua tôn giáo.

Đường Khải nghe vậy thì vui vẻ, “Có đạo lý, có đạo lý.”

Mấy cấp dưới của ông ta cũng đổ mồ hôi dữ dội, không ngờ lại đúng là một sinh viên, nhưng là Tôn giáo học đó, nghe có vẻ cũng hợp?

Một người trong số đó còn bắt chuyện với Tạ Linh Nhai, “Tiểu đạo trưởng, vậy cậu cũng là học ngành Tôn giáo học hả?”

“Tôi làm tài chính á.” Tạ Linh Nhai cười với ông ta, “Với lại tôi không phải là đạo trưởng.”

Người nọ: “…”

Đường Khải cười ha hả: “Thầy Tiểu Tạ, cậu đừng giỡn mà. Lão Uông, tôi nói cho ông nghe, thầy Tiểu Tạ mặc dù không phải đạo trưởng, nhưng cũng là một vị cao nhân đó!”

Lão Uông nọ bật cười nói: “Tôi cứ tưởng Thi đạo trưởng còn dẫn theo nhân viên tài chính nữa chứ.”

Bấy giờ, Đường Khải nói: “Tôi nghe Tổng giám đốc Cao nói thầy Tạ biết đoán mệnh đấy, hay là cậu để lão Uông mở mang kiến thức một chút đi?”

Không biết là do nhàm chán hay sao, ông lại muốn xem Tạ Linh Nhai thể hiện khả năng.

Tạ Linh Nhai có gì phải sợ chứ, “Vậy chú đưa tay cho tôi đi.”

Lão Uông vừa đưa tay vừa nói, “Cậu xem chỉ tay à?”

Nào ngờ ngón tay của Tạ Linh Nhai lại đặt lên cổ tay ông ta, tay kia còn nâng phía dưới, giữ cho tay ông ta không động đậy trong lúc đi lại.

Ngoại trừ Thi Trường Huyền, những người khác đều ngơ ngác nhìn nhau. Đã từng tiếp đón đủ loại đại sư, đúng là chưa từng thấy đoán mệnh như thế này.

Lão Uông không cầm lòng nỗi nói: “Sao trông giống như… Bắt mạch vậy…”

“Đúng là bắt mạch mà.” Tạ Linh Nhai cười.

Mọi người: “…”

Đường Khải nói: “Nhầm rồi thầy Tiểu Tạ, ông ta bảo cậu đoán mệnh, xem bệnh thì thôi đi, tháng trước toàn công ty mới kiểm tra sức khỏe cho công nhân viên.”

“Không không, cái này gọi là mạch Thái Tố, do một người anh của tôi dạy tôi, có thể thông qua mạch tượng đoán hung cát sang nghèo.” Tạ Linh Nhai giải thích.

Đường Khải: “??”

Cách thức đoán mệnh có nhiều như thế, Đường Khải cũng coi như là hiểu biết rộng rãi, đúng là chưa từng nghe bắt mạch để đoán mệnh, nghe hơi bị ảo diệu đấy, nhưng Tạ Linh Nhai nói có vẻ như thật, khiến Đường Khải bán tín bán nghi.

Bây giờ đã là mùa thu, mạch Thái Tố phải chẩn đoán kết hợp với thời gian, Tạ Linh Nhai trải qua một thời gian tập luyện đã tiến bộ kha khá phương pháp mạch Thái Tố, cậu lần mò mạch tượng của lão Uông.

Trong phương pháp mạch Thái Tố là dùng mạch đập chậm rõ nhanh loạn để phán đoán vận mệnh, trên nguyên tắc chia ra chậm rõ là giàu sang, nhanh loạn là nghèo khổ. Lại xem xét kỹ càng từ các bộ phận, chẳng hạn như lá gan của đàn ông quyết định công danh.

Gan của lão Uông tương đối nhẹ, hơn nữa không có cảm giác lúc có lúc không, nhưng mà phổi lại khá nặng, đây hẳn là tài trí mưu lược chưa đủ. Thật ra cũng dễ đoán thôi, nếu ông ta đủ tài năng vậy chẳng phải ông ta làm lãnh đạo của Đường Khải rồi sao.

Tạ Linh Nhai không nói ra mấy điều này, sau khi lần mò mạch hơn một phút thì nói: “Kết quả kiểm tra tháng trước cũng không tệ lắm đúng không, chỉ có chút bệnh thôi, không có vấn đề gì lớn.”

Lão Uông gật đầu, “Đúng, chỉ là mấy bệnh vặt như viêm họng mạn tính, đau mắt hột này nọ thôi.”

Nhưng việc này nếu biết Trung y thì cũng nhìn ra được, thậm chí không cần bắt mạch, xem sắc mặt là được rồi, mọi người đều không thấy ngạc nhiên.

Tạ Linh Nhai lại nói: “Nhưng chú có thể yên tâm, con gái chú… chú có một cô con gái đúng không? Kỳ thi đại học của cô ấy sẽ rất thuận lợi.”

Lão Uông xém chút nữa sợ đến mức trượt chân, nhìn Đường Khải.

Đường Khải: “…Tôi không nói ông có đứa con gái.” Trên thực tế hôm qua ông mới đi tìm Thi Trường Huyền, sau đó gặp được Tạ Linh Nhai, cũng không có nói với Tạ Linh Nhai ở đây sẽ có những ai.

Mạch Thái Tố chính là vậy, chẳng những có thể đoán mệnh của chủ nhân, mà còn có thể đoán ra tình hình của con cháu ông ta. Bản thân lão Uông không có gì phải lo lắng, ngược lại mạch tượng bộ phận tượng trưng cho con cháu êm đềm, nhưng mà số nhịp có hơi hỗn loạn, hiển nhiên là đang ở một bước ngoặt quan trọng nào đó, lại tìm tòi tuổi tác của người con này thì vừa khớp là đang ở độ tuổi thi đại học.

Thế nên cũng coi như là bảy phần xem, ba phần đoán. Tạ Linh Nhai không biết những người tu tập mạch Thái Tố đến trình độ cao nhất là thế nào, dù sao bản thân cậu hiện nay không thể lần ra hết, hoặc đoán đến mức chi tiết như vậy. Ví dụ bảo cậu bắt mạch đoán xem trưa mai có ăn thịt hay không thì chắc chắn là lần không ra rồi.

Dù là như thế cũng đã khiến lão Uông bội phục lắm rồi, ông ta có con khá muộn, nếu nói là nhìn tuổi đời ông ta đoán ra thì chắc chắn không có khả năng.

“Thầy Tạ, lợi hại.” Lão Uông khen.

“Quá khen quá khen, tôi cũng chỉ mới học thôi.” Tạ Linh Nhai ăn ngay nói thật.

Làm pháp sự phải để đến tối, pháp thuật dùng cho lần này cũng tương tự như khi tế cô, tại sao nói tương tự chứ, bởi vì sau khi cúng tế cô hồn còn phải thêm một bước, đó chính là khiến chúng kinh sợ, để sau này nơi đây không có cô hồn dã quỷ quấy rối nữa.

Xây dựng trong núi quả thật tương đối cần loại pháp sự này. Đợi lúc thi công còn phải chôn mấy tấm bùa chú dưới đất.

Trước tiên Tạ Linh Nhai vẽ xong toàn bộ bùa buổi tối cần dùng. Nhiều bùa như vậy nếu đổi lại là đạo sĩ bình thường ít nhất cũng phải chuẩn bị mười ngày nửa tháng, cậu thì lại coi như thú tiêu khiển mà vẽ xong hết sau bữa tối, đang để hong khô ở một bên.

Mặc dù ở trên núi, nhưng thức ăn đều là do khách sạn trong thành phố đưa đến, sau khi ăn xong bữa tối, Đường Khải nhiệt tình bảo họ đi “ngâm suối nước nóng”.

Dưới lòng đất có suối nước nóng, tuy rằng vẫn chưa khai phá, nhưng các công nhân san đất ở đây đã dẫn chút nước ra, ngày thường tắm rửa đều là dùng nước suối chính cống.

Đêm nay Đường Khải cũng muốn ở lại trên núi, bỗng hứng lên còn bảo người đưa thùng tắm đến.

Thời buổi này, có rất nhiều nước nóng trong hồ suối nước nóng cũng chỉ là nước đun sôi bình thường mà thôi, nhiệt độ ban đêm trên núi có hơi lạnh, Tạ Linh Nhai cảm thấy khá là hứng thú.

Vì thế vẽ bùa xong không bao lâu, Tạ Linh Nhai kéo Thi Trường Huyền xuống tầng trệt, do Đường Khải đặt toàn bộ thùng tắm ở tầng trệt, đây chỉ là nhà di động nên nếu đặt ở tầng một sợ là không ổn.

Trước khi đi xuống, Thi Trường Huyền ngẫm nghĩ một chút, sau đó gỡ Thương Lục Thần ra rồi để trong phòng.

“Á á á á á á á á!” Thương Lục Thần gào khóc om sòm một hồi, nhưng Thi Trường Huyền đã phất tay áo bỏ đi rồi.

Đường Khải đang coi người ta đổ nước, thấy Tạ Linh Nhai xách khăn đi đến, còn cười trêu chọc: “Thầy Tiểu Tạ trắng ghê nha, trên người cũng trắng như vậy à?”

“Đúng, phơi không đen nổi.” Tạ Linh Nhai cũng cười.

“…” Thi Trường Huyền lại không thể không nghĩ đến lời Nhĩ Báo Thần bị hư nọ đã nói, hơi câm nín.

Dù rằng Thương Lục Thần không ở đây, nhưng không hiểu sao cảm giác tồn tại lại cao lên, Thi Trường Huyền dường như có thể nghe thấy nó gào từng chữ bằng giọng bé xíu và vỡ âm: Tạ Linh Nhai trắng ghê.

Lúc này, lão Uông đột nhiên chạy đến, đứng ngoài cửa sổ nhìn Đường Khải, dừng lại nói với bên trong: “Tổng giám đốc Đường, à, à thì…”

Sắc mặt ông ta rất quái lạ, sâu trong ánh mắt lại có chút kinh hoảng.

“Làm sao vậy?” Đường Khải đi đến bên cửa sổ, mở rộng toàn bộ cửa sổ đang mở phân nửa ra.

Lão Uông nuốt nước bọt, nhìn Thi Trường Huyền hai người phía sau ông, nói: “Tôi đi kêu người thu nhặt lại những hài cốt mà trước đó đào lên, không phải một lát nữa sẽ làm pháp sự sao, sau đó phát hiện mất đầu, đầu lâu rồi.”

Bọn Tạ Linh Nhai đều biết chuyện đào được hài cốt từ trong đất, lúc đó cũng đã bàn xong, sau khi hợp lại làm pháp sự thì sẽ lựa một chỗ để an táng. Chính vì thế, lão Uông mới đi lấy hài cốt, thứ đó khiến người ta sợ hãi cho nên không để trong nhà, mà đặt ở một góc tại công trường.

Đường Khải cũng không khỏi nổi da gà, đen mặt nói: “Mất hết à? Coi kỹ xung quanh chưa? Trước đó thu dọn thế nào?”

Lão Uông yếu ớt nói: “Lẽ ra có năm cái đầu lâu, mất hết ba cái. Tôi hỏi rồi, thì ra là đựng trong cái sọt tre, rồi che lại bằng tấm bạt chống nước.”

“Thứ đó ai mà trộm chứ!” Đường Khải vừa sợ vừa cáu.

Lão Uông run sợ nói: “Có phải là “họ” không muốn đi cho nên mới…”

“Lấy sọ của mình đi hả?” Đường Khải cảm thấy rất vô lý, “Làm sao có thể! Ông đi hỏi coi, trong hai hôm nay có đứa trẻ nào từ thôn làng gần đây từng tới và lấy đi không.”

Ông hiểu rất rõ, trẻ con nhát gan nhất, nhưng cũng can đảm nhất, quậy lên là cái gì cũng làm ra được.

“Được…” Lão Uông đành phải trở về hỏi lại, trong bụng cũng rất rầu rĩ. Không tìm được hài cốt, có phải pháp sự tối nay làm không xong không.

Lúc này nước đã đổ xong, Đường Khải lại không có tâm trạng ngâm tắm, ông vốn là người nôn nóng, sau khi đi vài vòng tại chỗ thì không nhịn được nói: “Thầy Tiểu Tạ, chắc không phải là “họ” không muốn thật đi đấy chứ? Nhưng khi chúng tôi san đất ở đây, “họ” cũng có tỏ ra phản đối gì đâu.”

“Không thể nào đâu.” Tạ Linh Nhai cũng cảm thấy kỳ lạ, “Như những gì ông nói, không muốn đi cũng đâu cần phải lấy đầu lâu của mình đi chứ.”

“Đúng đúng, tôi thấy có lẽ là có người giả quỷ.” Đường Khải suy nghĩ một hồi, “Không được, tôi phải đi hỏi một chút. Cậu, hai cậu đừng bận tâm, cứ thư giãn trước, nếu kéo dài thì tôi sẽ chi thêm.”

Nói rồi ông vội vàng đi ra ngoài.

“Sẽ không có chuyện chứ? Tôi đã cho ông ấy bùa, hơn nữa tôi thấy nơi đây không có sát khí mà.” Tạ Linh Nhai nói, kinh nghiệm từ lần trước cùng Thi Trường Huyền xuống mỏ cho cậu biết, mọi chuyện không thể nghĩ về hướng thần linh quỷ quái đầu tiên, không thì bạn rất dễ bị mất mặt đấy!

Thi Trường Huyền cũng cảm thấy không có vấn đề. Dù rằng đào ra hài cốt, nhưng phong thủy nơi đây khá tốt, trước đây lại không phải là mộ tập thể, có cô hồn dã quỷ cũng sẽ không thành hung thần.

“Vậy kệ thôi, ban ngày leo núi đổ mồ hôi, tôi ngâm một lát trước đây.” Tạ Linh Nhai nói, cậu vừa mới tắm trước một bận ở trong phòng, đuôi tóc còn dính chút hơi nước, có thể nói là đã chuẩn bị xong từ lâu.

Tạ Linh Nhai thoắt cái đã cởi sạch đồ ngồi vào trong thùng tắm, động tác nhanh đến mức Thi Trường Huyền không kịp phản ứng.

Bên cạnh còn có hai thùng, hiển nhiên là cho Thi Trường Huyền và Đường Khải, Đường Khải đã đi ra ngoài, Thi Trường Huyền còn đứng yên tại chỗ một hồi.

“Trời má, nóng thật đấy, anh cũng vào nhanh lên đi.” Tạ Linh Nhai thậm chí còn ứa nước mắt, nghĩ thầm không thể để một mình mình nóng được, bèn gọi Thi Trường Huyền.

Cậu ngồi dựa vào cạnh thùng, vai lưng và cánh tay đều lộ ra ngoài, trong hơi nước mờ mịt, nước da trắng ngần bị nóng ửng đỏ, giọt nước chảy từ trên xuống để lại dấu vết rõ ràng đến thế.

Luồng suy nghĩ của Thi Trường Huyền thế mà lại bị chệch đi, nghĩ may mà không có mang Thương Lục Thần theo, nếu không thì chắc nó lại sẽ gào vỡ giọng luôn.

“Khụ.” Cổ họng Thi Trường Huyền hơi ngứa, nghiêng người cởi đồ, không nói một lời ngồi vào thùng tắm, hai má cũng bị hơi nóng xông đến đỏ ửng, ngược lại trông anh không lạnh lùng như thường ngày nữa.

Có điều bình thường anh không thích nói chuyện, cho nên Tạ Linh Nhai cũng không cảm thấy không ổn.

“Khá là thoải mái đấy, chỉ có hơi nóng lúc mới vào thôi.” Tạ Linh Nhai lau khô nước mắt sinh lý, nói, “Đợi sau khi nơi này xây xong, tôi sẽ dẫn mọi người trong quán đến ngâm… Nè, anh nói họ có để ý chỗ này có chùa không, hẳn là sẽ ổn nhỉ, chỉ là ở cùng một khu thắng cảnh mà thôi.”

Thi Trường Huyền chỉ cách cậu hơn một mét, anh nhìn chăm chú vào đôi mắt ẩm ướt của cậu một hồi, cuối cùng gượng gạo mà rời mắt đi, cảm thấy ngâm mình trong nước suối dường như nóng thẳng vào đáy lòng, gần như muốn sôi trào.

|…|

“Tôi trở lại rồi đây.” Đường Khải chạy chậm đi vào, soàn soạt cởi đồ rồi vào thùng tắm của mình, “Úi cha mạ ơi, còn nóng thế cơ à, sắp bỏng jj luôn rồi!”

Tạ Linh Nhai: “…”

Thi Trường Huyền: “…”

Đường Khải nhìn hai người họ, ngượng ngùng nói: “Người trẻ các cậu đúng là khỏe, chịu đựng nổi.”

Tạ Linh Nhai dở khóc dở cười, “Khả năng chịu nóng của mọi người khác nhau thì phải…”

Nói chủ đề này với người không thân thật sự quá ngượng nghịu, Đường Khải thì lại không cảm thấy vậy, nhưng Tạ Linh Nhai không nói tiếp được nữa.

Thi Trường Huyền vừa nhìn thấy Đường Khải, thì hoàn toàn tỉnh táo khỏi bầu không khí có hơi mê mẩn, hờ hững hỏi: “Thế nào rồi?”

“À, hình như là thấy có trẻ con từ thôn núi gần đây đến chơi, tôi bảo người vào thôn hỏi rồi, phải đem về mới được.” Đường Khải rất ghét cảm giác kế hoạch bị xáo trộn, bực dọc nói.

Do vì khá là nóng, ông còn đưa mặt lại gần cửa sổ đang mở rộng, dù sao đều là đàn ông, hiện nay công trường cũng không có phụ nữ.

Tạ Linh Nhai gật đầu, “Vậy tốt nhất tối nay có thể đem về, đừng chậm trễ làm pháp sự.”

“Thì là muốn vậy đó, nếu không còn phải đợi lâu.” Đường Khải lắc đầu, “Ôi, đúng là người tính không bằng trời tính.”

Đường Khải bĩu môi, chăm chăm ngó ra bên ngoài.

“Đám con nít cũng gan quá, có thể so được với tôi khi còn nhỏ đấy.” Tạ Linh Nhai không khỏi cảm thán.

Thi Trường Huyền: “…”

Đường Khải không lên tiếng.

Tạ Linh Nhai lại hỏi một câu: “Này ngài Đường, ông muốn uống nước không?” Nước suối đặt ở bên cạnh, cậu định lấy một chai, bèn thuận miệng hỏi một câu.

Đường Khải vẫn không lên tiếng.

Tạ Linh Nhai cảm thấy bất thường, cậu là ở bên cạnh Đường Khải, bèn nhìn thoáng sang, đường nhìn của Đường Khải như thể bị đóng băng, vả lại đang ngồi trong nước suối nóng hầm hập mà mặt lại xanh trắng lẫn lộn, hàm răng thì cắn chặt.

“Ngài Đường?” Tạ Linh Nhai quấn khăn tắm, đứng dậy.

Đường Khải chẳng dám xoay đầu, hít thở cũng chậm lại, môi hơi khép mở, phát ra tiếng nói nhỏ run run: “Cậu, cậu lại coi, kia có phải thứ đó không…”

Thứ đó? Chẳng lẽ có quỷ? Tạ Linh Nhai thoáng cái bước ra thùng tắm, đi đến bên cửa sổ rồi nhìn ra ngoài

Đằng sau nhà di động cây cối mọc um tùm, địa thế khá cao, hình thành một sườn núi thấp. Ánh trăng soi rọi khắp nhân gian, Tạ Linh Nhai nhìn thấy một cảnh kỳ dị giữa đám cỏ cây tại sườn núi thấp.

Ba con cáo hoang màu vàng đất ngồi trên cục đá, chân trước khép trước ngực, đồng loạt hướng mặt về phía mặt trăng, như thể đang cầu khấn, quan trọng hơn là trên đầu mỗi chúng nó đội một thứ trắng toát lớn cỡ bàn tay, có hình dạng cong cong, giống như đội nón vậy.

Mặc dù cách một khoảng nhất định, nhưng trông hình dạng và kích cỡ đó thì rõ ràng là mấy cái đầu lâu họ đã tìm mãi.

Núi sâu, cáo hoang, xương trắng.

Trong bóng đêm, kết hợp với cảnh tượng này quả là hết sức âm u và kỳ dị.

Tạ Linh Nhai đứng bên cạnh Đường Khải, có thể nghe rõ tiếng răng hàm của ông ta va nhau lập cập.

Chương 30

Chương 28

Hãy nói gì đó cho xôm đi bà con :>